Theo đó, nghiên cứu do các nhà khoa học tại Đại học Harvard thực hiện, vừa được công bố trên tạp chí Geophysical Research Letters.
Các nhà khoa học chỉ ra rằng, sự dịch chuyển các cực của Trái đất có thể bắt nguồn từ hai làn sóng xây đập nước quy mô lớn trên thế giới. Làn sóng lớn đầu tiên diễn ra tại Bắc Mỹ và châu Âu trong suốt thể kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sau đó, làn sóng lớn thứ hai diễn ra trên khắp châu Á và Đông Phi vào nửa sau thế kỷ 20.

Đập Hoover và cầu tưởng niệm Mike O'Callaghan-Pat Tillman ở Mỹ
Tất cả đều liên quan đến sự phân bổ khối lượng và moment quán tính của hành tinh. Trái đất sẽ quay tròn như trái bóng trên đầu ngón tay. Tuy nhiên nếu khối lượng đột ngột thay đổi ở một khu vực, vòng quay sẽ bắt đầu chao đảo.
Hãy tưởng tượng, lớp vỏ Trái Đất là một lớp rắn có thể trượt trên lớp phủ dẻo. Trọng lượng của nước trong các hồ chứa đã tác động lên lớp vỏ, khiến nó dịch chuyển so với lớp phủ, từ đó làm dịch chuyển vị trí các cực của Trái Đất.
Báo cáo nhấn mạnh: "Bất kỳ chuyển động nào của khối lượng bên trong Trái Đất hoặc trên bề mặt Trái Đất đều làm thay đổi hướng của trục quay so với lớp vỏ, một quá trình được gọi là chuyển động cực thực sự".
Trước đây, các nhà khoa học đã biết rằng hoạt động của con người, đặc biệt là việc dịch chuyển lượng nước khổng lồ, có thể gây ra hiện tượng trôi dạt cực.

Bạch Hạc Than - Siêu đập lớn thứ 2 sau đập Tam Hiệp ở Trung Quốc
Một nghiên cứu vào tháng 3 cho thấy sự tan chảy băng mạnh do biến đổi khí hậu có thể khiến hai cực dịch chuyển 27 mét vào cuối thế kỷ này. Một nghiên cứu khác vào năm 2023 kết luận rằng việc khai thác nước ngầm từ năm 1993 đến năm 2010 đã gây ra hiện tượng trôi dạt cực 80 cm.
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà khoa học đã phân tích tác động của 6.862 con đập được xây dựng trên khắp hành tinh từ năm 1835 đến năm 2011.
Dữ liệu cho thấy tổng lượng nước mà các con đập này chứa có thể lấp đầy hai lần Hẻm núi Lớn ở Mỹ, dẫn đến mực nước biển toàn cầu giảm 23 mm. Lượng nước này đã khiến các cực của Trái Đất di chuyển tổng quãng đường 1,1 mét trong suốt thời gian nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu giải thích rằng khi nước bị giữ lại phía sau các con đập, nó không chỉ bị lấy đi khỏi đại dương, dẫn đến mực nước biển toàn cầu giảm, mà còn phân bổ lại khối lượng theo một cách khác trên khắp thế giới.
Kết quả dựa trên tính toán và mô hình máy tính cho thấy hai giai đoạn riêng biệt của sự dịch chuyển cực trong giai đoạn nghiên cứu:
Giai đoạn 1 (1835-1954): Phản ánh việc xây dựng đập quy mô lớn ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Điều này khiến Bắc Cực dịch chuyển thêm 20cm về phía đông kinh tuyến 103 (một đường tưởng tượng chạy theo hướng bắc-nam qua Nga, Mông Cổ và Trung Quốc).

Đập Tam Hiệp của Trung Quốc - đập thủy điện lớn nhất thế giới, có thể ảnh hưởng đáng kể đến vòng quay của Trái đất
Giai đoạn 2 (1954-2011): Phản ánh việc xây dựng đập tràn lan ở Đông Phi và châu Á. Những con đập này đã bổ sung khối lượng vào hai phía đối diện của địa cầu với Bắc Mỹ và châu Âu, dẫn đến sự dịch chuyển 57cm về phía kinh tuyến 117 tây (chạy qua phía tây Bắc Mỹ và Nam Thái Bình Dương).
Sự dịch chuyển cực không phải là đường thẳng mà tạo thành một đường cong không ổn định, đó là lý do tại sao tổng số dịch chuyển ròng theo mỗi hướng không lên tới 1,1 mét.
Mặc dù vị trí của hai cực tương đối ít ảnh hưởng đến các quá trình của Trái Đất, nhưng tác động của các con đập lên mực nước biển lại rất đáng kể.
Nghiên cứu sinh Valencic, tác giả chính của nghiên cứu tại Đại học Harvard, cho biết: "Chúng ta sẽ không rơi vào một kỷ băng hà mới, chỉ vì hai cực đã dịch chuyển tổng cộng khoảng một mét, nhưng điều này chắc chắn có tác động đến mực nước biển".
Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học nên tính đến hoạt động của các đập chắn nước trong dự báo mực nước biển dâng, vì đập ngăn chặn rất nhiều nước đổ ra đại dương. Mực nước biển toàn cầu đã dâng từ 12 đến 17cm trong thế kỷ XX.
Khoảng một phần tư lượng nước đó bị chắn bởi các con đập, điều này có nghĩa là tùy thuộc vào vị trí trên thế giới, các đập nước này sẽ ảnh hưởng đến mực nước biển, bà Valencic nhấn mạnh.